Theo dự thảo Nghị định, đối tượng được miễn thuế là vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước trực tiếp hoặc uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu. Trường hợp Ngân hàng Nhà nước uỷ thác cho doanh nghiệp hoặc tổ chức tín dụng thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu, việc miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu áp dụng theo số lượng cụ thể vàng nguyên liệu dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu.
Thời gian tiến hành xuất khẩu, nhập khẩu và danh sách các đơn vị được Ngân hàng Nhà nước ủy thác việc xuất khẩu, nhập khẩu trong từng thời kỳ do Ngân hàng Nhà nước công bố bằng văn bản. Căn cứ quy định nêu trên và pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Ngân hàng Nhà nước quy định điều kiện và quy trình, thủ tục chọn lựa doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được uỷ thác xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
Đối với chính sách thuế xuất khẩu, Nghị định 87/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, vàng nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài khi xuất trả sản phẩm cho phía nước ngoài được miễn thuế xuất khẩu. Vàng nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu không phải nộp thuế xuất khẩu đối với vàng xuất khẩu có đủ điều kiện xác định là được chế biến từ toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu.
Các trường hợp vàng xuất khẩu không theo các loại hình nêu trên phải chịu thuế xuất khẩu. Cụ thể, mặt hàng vàng nguyên liệu loại có hàm lượng dưới 99,99% áp dụng mức thuế suất 10% và loại có hàm lượng từ 99,99% trở lên áp dụng mức 0%. Mặt hàng đồ trang sức, kỹ nghệ và các sản phẩm khác bằng vàng chia thành 2 loại: loại có hàm lượng vàng từ 80% trở lên áp dụng mức thuế suất 10% và loại có hàm lượng vàng dưới 80% áp dụng mức 0%.
Về chính sách thuế nhập khẩu, vàng nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu. Vàng nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu, nếu đã nộp thuế nhập khẩu thì được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ sản phẩm thực tế xuất khẩu.
Các trường hợp vàng nhập khẩu không theo các loại hình nêu trên phải chịu thuế nhập khẩu. Theo đó, mặt hàng vàng nguyên liệu có mức thuế suất 0%; mặt hàng đồ trang sức, kỹ nghệ và các sản phẩm khác bằng vàng có mức thuế suất 25% và 30%.
Về chính sách thuế giá trị gia tăng, theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn, vàng nhập khẩu dạng thỏi, miếng chưa được chế tác thành sản phẩm mỹ nghệ, đồ trang sức hay sản phẩm khác thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Hoạt động mua bán vàng là đồ trang sức, kỹ nghệ, thỏi, miếng và các sản phẩm khác bằng vàng thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo mức thuế suất 10% tính trên giá trị gia tăng. Mặt hàng vàng cũng không thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp sản xuất, gia công, kinh doanh mặt hàng vàng thực hiện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thông thường khác.
Như vậy, chính sách thuế đối với hoạt động kinh doanh vàng đã được quy định rõ ràng tại các luật thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp và văn bản hướng dẫn thực hiện các luật thuế.
Theo Bộ Tài chính, về cơ bản, chính sách thuế đã phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng. Riêng mặt hàng vàng nguyên liệu do ngân hàng nhà nước khi xuất khẩu phải áp dụng mức thuế xuất khẩu 10% nếu là loại có hàm lượng vàng dưới 99,99%, nếu là loại có hàm lượng vàng từ 99,99% trở lên thì được áp dụng mức thuế xuất khẩu 0% nhưng phải có giám định chất lượng vàng; khi nhập khẩu áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu 0% (do thuế nhập khẩu hiện hành đang là 0%) và không phải chịu thuế giá trị gia tăng (khi nhập khẩu), thuế tiêu thụ đặc biệt.
Trước đó, ngày 4/2/2013, Bộ Tài chính đã có công văn số 1874/2013/BTC-CST quy định không thu thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu đối với mặt hàng vàng nguyên liệu dạng miếng, dạng thỏi Ngân hàng Nhà nước uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian từ ngày 4/2/2013 đến 31/3/2013.
Từ 1/4/2013 trở đi, Ngân hàng Nhà nước tạm dừng việc uỷ thác xuất khẩu, uỷ thác nhập khẩu cho phép các tổ chức tín dụng mà sẽ trực tiếp thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu.
Vì vậy, để tạo thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, góp phần bình ổn thị trường vàng trong nước, Bộ Tài chính cho rằng quyết định này được ban hành sẽ đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước kịp thời xuất khẩu, nhập khẩu và không ảnh hưởng đến giá vàng nguyên liệu xuất khẩu, nhập khẩu của Ngân hàng Nhà nước trong việc sản xuất vàng miếng để kịp thời can thiệp, bình ổn thị trường vàng trong nước hoặc để bổ sung vào dự trữ ngoại hối của Nhà nước theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP và Quyết định số 16/2013/QĐ-TTg.